top of page

Đập tan “lá chắn thép” Phan Rang

Tôi còn nhớ như in, ngày cùng đồng đội trực tiếp bắt sống Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Phó Tư lệnh Quân đoàn 3 và Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, đập tan phòng tuyến “lá chắn thép” Phan Rang…”. Đại tá Nguyễn Trọng Nghĩa, nguyên Chỉ huy Đại đội Đặc công 311, Tỉnh đội Ninh Thuận bắt đầu câu chuyện về ký ức Chiến dịch mùa Xuân 1975.
Đại tá Nguyễn Trọng Nghĩa, nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Ninh Thuận. Ảnh: Xuân Hướng
Đại tá Nguyễn Trọng Nghĩa, nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Ninh Thuận. Ảnh: Xuân Hướng

Theo hồi ức của Đại tá Nguyễn Trọng Nghĩa

Quyết tâm xuyên thủng phòng tuyến “lá chắn thép”!

Chúng tôi gặp Đại tá Nguyễn Trọng Nghĩa tại TP Phan Rang - Tháp Chàm vào những ngày tháng 4 nắng cháy. Ngồi nhâm nhi bên ấm chè, nghe ông kể về cuộc đời, những ngày tháng gian lao trong quân ngũ; về cuộc chiến đấu, hy sinh của Đại đội Đặc công 311 do ông chỉ huy góp phần vào Chiến thắng mùa Xuân 1975 lịch sử.

Đại tá Nguyễn Trọng Nghĩa sinh năm 1948, trong gia đình có truyền thống cách mạng tại Bến Tre, nhập ngũ năm 1962 và được điều động về Đại đội Đặc công 311 Tỉnh đội Ninh Thuận.

Nói về những ngày chiến đấu, giọng ông trầm xuống: "Ngày đó, chiến tranh khốc liệt, sống chết chỉ trong gang tấc. Tôi cùng đồng đội đã tuyên thệ nguyện hy sinh tính mạng, bằng mọi giá phải “xuyên thủng phòng tuyến lá chắn thép” Phan Rang, hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó".

Theo Đại tá Nghĩa, sau thất bại trên chiến trường Tây Nguyên và các tỉnh duyên hải miền Trung, quân lực ngụy quyết tâm dựng tuyến phòng thủ Phan Rang hòng chặn đứng bước tiến của quân ta, giữ vững thế phòng ngự từ xa bảo vệ đầu não ngụy quân Sài Gòn.

Để ngăn chặn, quân đội ta đánh chiếm hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, thành lũy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã quyết định giao cho Quân đoàn 3 ngụy lập tuyến phòng thủ “lá chắn thép”.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 và Quân khu 3, thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh ngụy quân tại Phan Rang.

Tại Phan Rang, ngụy quyền Sài Gòn huy động một lực lượng quân sự hùng hậu, gồm: Sư đoàn 6 không quân, Lữ đoàn 2 dù, Sư đoàn 2 bộ binh, Liên đoàn 31 biệt động quân, 2 chi đoàn thiết giáp cùng với lực lượng pháo binh, bảo an, dân vệ, cảnh sát với hơn 10.000 tên, 150 máy bay các loại sẵn sàng phản kích. Ở ngoài khơi còn có hạm đội 7 sẵn sàng chi viện. Quân lực Ngụy lấy cửa ngõ Du Long, cách Phan Rang hơn 20 cây số làm phòng tuyến then chốt. Dọc đường 1A từ Du Long vào Cà Đú, chúng còn tổ chức thêm nhiều tuyến phòng thủ vững chắc.

Đầu tháng 4/1975, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Khu ủy và Quân khu 6 chỉ đạo tỉnh Ninh Thuận phải phát huy mọi lực lượng ở đồng bằng và căn cứ, tiến ngay ra phía trước tấn công địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp, giải phóng quê hương. Tỉnh ủy và Tỉnh đội Ninh Thuận quyết định củng cố lại Ban Chỉ huy Tiền phương C sẵn sàng cùng quân chủ lực giải phóng Ninh Thuận.

Nhiệm vụ chủ yếu của tiền phương C là đánh địch, giải phóng đường 11 “sớm chừng nào tốt chừng nấy” cô lập không cho địch tiếp viện lên Lâm Đồng và cũng không cho địch trên Lâm Đồng tiếp viện về Phan Rang; đồng thời, phối hợp cùng quân chủ lực góp phần giải phóng tỉnh Ninh Thuận”.

"Thời điểm này tôi, được Tỉnh đội Ninh Thuận giao nhiệm vụ chỉ huy Đại đội Đặc công 311 và 314, hoạt động bí mật trong lòng thị xã Phan Rang, phối hợp với quân chủ lực Sư đoàn 3 Sao vàng, cùng bộ đội địa phương tấn công quân địch trong thị xã nhằm “xé toạc” tuyến phòng thủ Phan Rang", Đại tá Nguyễn Trọng Nghĩa nhớ lại.

Từ ngày 1 - 3/4/1975, sau khi ngụy quân thất thủ ở Lâm Đồng và Khánh Hòa, các nhóm tàn quân ở Đà Lạt tháo chạy theo đường 11 về Phan Rang đều bị quân ta chặn đánh. Quân ta cũng lần lượt mở các đợt công kích đánh chiếm các ấp ven đường 11, giải phóng quận Krông-Pha.

Bộ đội địa phương của hai huyện Bác Ái và Anh Dũng cùng một số đơn vị khác của tỉnh được chỉ đạo bổ sung cho cho Tiểu đoàn 610 làm nhiệm vụ chốt giữ đèo Cậu, chặn đánh quân địch từ Sân bay Thành Sơn bung ra phản kích và bảo vệ đường 11, phối hợp với quân chủ lực giải phóng thị xã Phan Rang.


Sáng 16/4/1975, quân ta chia làm 3 mũi chính: Mũi đầu tiên có xe tăng dẫn đầu tiến theo đường 1, sau khi đánh chiếm Phan Rang sẽ tiến lên Sân bay Thành Sơn. Mũi thứ hai từ hướng Tây Bắc đánh thẳng vào sân bay Thành Sơn. Mũi thứ ba đánh chiếm Cảng Ninh Chữ, không cho địch tháo chạy ra biển. Tất cả từ chỉ huy cho đến chiến sĩ đều thể hiện quyết tâm “dù hy sinh cũng phải đập tan tuyến phòng thủ lá chắn thép” của ngụy quân, giải phóng Phan Rang.

Sưu tầm

Theo thanhtra.com.vn

7 lượt xem

Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Comments


bottom of page